(Chinhphu.vn) – Mặc dù đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong cuộc chiến chống lại HIV/AIDS, nhưng thế giới vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc chấm dứt đại dịch này vào năm 2030 theo mục tiêu đã đề ra.
Những tiến bộ đạt được
Báo cáo mới nhất của Khung tổ chức GAM (Global AIDS Monitoring) đã đánh giá tiến độ toàn cầu trong việc đạt được các mục tiêu then chốt do UNAIDS đề ra, bao gồm giảm 90% số ca nhiễm HIV mới và tử vong liên quan đến AIDS so với năm 2010, cũng như đạt được mục tiêu 95-95-95 vào năm 2025.
Báo cáo GAM sử dụng dữ liệu từ các báo cáo của Chương trình phối hợp của Liên Hợp Quốc về phòng, chống HIV/AIDS (UNAIDS), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và các nghiên cứu khác để đánh giá tiến độ đạt được trên toàn cầu và ở các khu vực khác nhau. Các chỉ số chính được xem xét bao gồm số ca nhiễm HIV mới, số ca tử vong liên quan đến AIDS, tỉ lệ người nhiễm HIV biết tình trạng nhiễm, tỉ lệ người nhiễm HIV đang điều trị ARV và tỉ lệ người nhiễm HIV có tải lượng virus ở mức thấp.
Báo cáo mới đây của UNAIDS cho thấy, mỗi phút có 1 sinh mạng mất đi vì AIDS. Hiện 9,2 triệu người trên khắp thế giới đang mang virus HIV nhưng không được tiếp cận với việc điều trị. Dù không thể phủ nhận những tiến bộ đạt được trong việc giảm thiểu tới 70% số ca tử vong so với giai đoạn đỉnh điểm đầu những năm 2000, nhưng HIV/AIDS vẫn là một mối đe dọa sức khỏe cộng đồng lớn. Báo cáo cũng chỉ ra rằng, căn bệnh AIDS có thể không còn là một mối đe dọa sức khỏe cộng đồng vào năm 2030, nhưng chỉ khi các cộng đồng ở tuyến đầu nhận được sự hỗ trợ đầy đủ mà họ cần từ chính phủ và các nhà tài trợ.
Trong một báo cáo khác của UNAIDS, thế giới đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc kiểm soát đại dịch HIV/AIDS. Số ca nhiễm HIV mới hàng năm đã giảm 59% so với đỉnh điểm năm 1995, từ 3,2 triệu xuống còn 1,3 triệu vào năm 2022. Số ca tử vong liên quan đến AIDS đã giảm 69% so với đỉnh điểm năm 2004 và 51% so với năm 2010, xuống còn khoảng 630.000 vào năm 2022.
Về tiếp cận dịch vụ HIV, tỉ lệ người nhiễm HIV biết tình trạng nhiễm của mình đã tăng lên 86% vào năm 2022. Tỉ lệ người nhiễm HIV đang điều trị ARV đã tăng từ 25% năm 2010 lên 76% năm 2022, tương đương với 29,8 triệu người đang điều trị.
Một số quốc gia đã đạt được thành tựu đáng chú ý trong việc kiểm soát HIV/AIDS. Năm quốc gia đã đạt được mục tiêu 95-95-95 trên toàn quốc vào năm 2022, và ít nhất 16 quốc gia khác đang ở rất gần với mục tiêu này.
Vẫn còn nhiều thách thức tồn tại
Mặc dù công tác phòng, chống HIV đã có nhiều tiến bộ, nhưng thế giới vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc chấm dứt AIDS. Tốc độ giảm số ca nhiễm HIV mới vẫn chưa đủ nhanh để đạt mục tiêu giảm 90% vào năm 2030. Số liệu thống kê cho thấy, năm 2022, vẫn có khoảng 4.000 ca nhiễm mới mỗi ngày.
Sự chênh lệch trong tiếp cận dịch vụ HIV giữa các khu vực và nhóm dân số vẫn tồn tại. Châu Phi cận Sahara chiếm 61% số ca nhiễm mới toàn cầu. Tỉ lệ nhiễm HIV ở các nhóm nguy cơ cao như người tiêm chích ma túy, nam quan hệ tình dục đồng giới, người chuyển giới và gái mại dâm cao hơn nhiều so với dân số chung.
Đáng lo ngại hơn, tại một số khu vực như Đông Âu và Trung Á, Mỹ Latinh, Trung Đông và Bắc Phi, số ca nhiễm HIV mới đang gia tăng trong những năm gần đây. Đại dịch COVID-19 cũng đã gây gián đoạn cho các chương trình phòng chống HIV/AIDS, làm chậm lại tiến độ .
Về tiếp cận dịch vụ HIV, vẫn còn khoảng 9,2 triệu người nhiễm HIV trên toàn cầu chưa được điều trị ARV, và khoảng 2,1 triệu người đang điều trị nhưng chưa đạt được tải lượng virus ở mức thấp . Điều này đồng nghĩa rằng, mặc dù đã có tiến bộ, nhưng AIDS vẫn cướp đi một sinh mạng mỗi phút vào năm 2022 và vẫn là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở châu Phi cận Sahara. Tại Việt Nam, khoảng 30% người nhiễm HIV vẫn chưa được chẩn đoán. Tỉ lệ người nhiễm HIV được điều trị ARV mới đạt 82%, còn thấp hơn so với mục tiêu 90%
Hơn nữa, kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn là rào cản khiến các nhóm nguy cơ cao chậm tiếp cận xét nghiệm và điều trị. Nguồn tài trợ quốc tế đang giảm dần trong khi ngân sách trong nước còn hạn chế cũng là một thách thức đáng kể, vẫn còn một khoảng trống tài trợ khoảng 8 tỉ USD mỗi năm so với nhu cầu cho các chương trình phòng chống HIV/AIDS.
Hành động đúng hướng để đạt mục tiêu chấm dứt AIDS vào 2030
Theo các chuyên gia phòng, chống HIV/AIDS, để đẩy nhanh tiến độ chấm dứt đại dịch AIDS, chúng ta cần mở rộng hơn nữa các biện pháp dự phòng hiệu quả như bao cao su, dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP), bơm kim tiêm sạch và cắt giảm. Đồng thời, phải tăng cường xét nghiệm và điều trị sớm để đạt mục tiêu 95-95-95 vào năm 2025. Một nghiên cứu cho thấy việc mở rộng điều trị ARV kịp thời có thể giảm 90% số ca tử vong liên quan đến AIDS.
Bên cạnh đó, cần giải quyết các rào cản xã hội như kỳ thị, phân biệt đối xử, thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, trẻ em gái. Các hoạt động truyền thông giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng đóng vai trò then chốt trong việc giảm kỳ thị và khuyến khích người dân tiếp cận dịch vụ HIV. Một nghiên cứu tại Nigeria cho thấy sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự và cộng đồng người có HIV giúp tăng cường tiếp cận dịch vụ và giảm kỳ thị.
Về tài chính, cần có cam kết mạnh mẽ hơn từ chính phủ, nhà tài trợ và khu vực tư nhân để bù đắp khoảng trống tài trợ hàng năm khoảng 8 tỷ USD. Việt Nam đã tăng cường huy động nguồn lực trong nước để bảo đảm tính bền vững của chương trình phòng chống HIV/AIDS với Đề án đảm bảo tài chính cho các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS và Đề án này đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1899/QĐ-TTg vào ngày 15/10/2013 .
Sự tham gia tích cực của cộng đồng và người nhiễm HIV cũng rất quan trọng. Họ không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà còn là những tác nhân tích cực trong việc thúc đẩy thay đổi, giảm kỳ thị và mở rộng các dịch vụ HIV tới những người khó tiếp cận. Một nghiên cứu tại Tanzania cho thấy việc đào tạo và trao quyền cho phụ nữ nhiễm HIV trở thành tuyên truyền viên đồng đẳng giúp tăng tỉ lệ xét nghiệm HIV và giảm kỳ thị trong cộng đồng.
Thách thức và bài học cho Việt Nam
Tại Việt Nam, mặc dù đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong kiểm soát HIV/AIDS, nhưng chúng ta vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức riêng biệt. Tỉ lệ lây nhiễm HIV trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới đang gia tăng nhanh chóng, chiếm tới 80% tổng số ca nhiễm mới ở một số tỉnh thành. Kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn là rào cản khiến các nhóm nguy cơ cao chậm tiếp cận xét nghiệm và điều trị. Nguồn lực tài chính còn hạn chế cũng là một thách thức đáng kể.
Kinh nghiệm từ các nước thành công cho thấy sự lãnh đạo mạnh mẽ của C hính phủ, hợp tác đa ngành, lồng ghép HIV vào các chương trình phát triển, và sự tham gia của cộng đồng là những yếu tố then chốt. Việt Nam cần học hỏi và áp dụng linh hoạt các bài học này vào bối cảnh cụ thể của đất nước.
Để chấm dứt AIDS vào năm 2030, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động dự phòng, mở rộng xét nghiệm và điều trị ARV, đặc biệt cho các nhóm nguy cơ cao như nam quan hệ tình dục đồng giới. Bên cạnh đó, cần tăng cường truyền thông giảm kỳ thị, huy động nguồn lực trong nước, và thúc đẩy sự tham gia của người có HIV vào các chương trình phòng chống.
Chính phủ Việt Nam cần tiếp tục thể hiện quyết tâm chính trị, tăng cường hợp tác liên ngành và huy động sự tham gia của các bên liên quan. Các bộ ngành cần phối hợp chặt chẽ để lồng ghép HIV vào các chương trình phát triển kinh tế – xã hội . Các tổ chức xã hội dân sự và cộng đồng cần được tạo điều kiện để đóng góp tích cực vào công cuộc phòng chống HIV/AIDS.
Đề án bảo đảm tài chính cho các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS và Đề án này đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1899/QĐ-TTg vào ngày 15/10/2013 là một kế hoạch dài hơi, cụ thể, tỷ trọng các nguồn tài chính trong nước đã tăng lên tới hơn 51% trong đó tỷ trọng ngân sách địa phương phân bổ cho phòng, chống HIV/AIDS không ngừng tăng lên qua các năm tăng từ 8% lên tới 17%. Quỹ Bảo hiểm y tế là bước đột phá của chương trình phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam với 95% người nhiễm HIV tham gia bảo hiểm y tế tăng gấp 2 lần trong vòng 5 năm.
Chấm dứt đại dịch AIDS vào năm 2030 là một mục tiêu tham vọng nhưng hoàn toàn khả thi nếu chúng ta hành động quyết liệt ngay từ bây giờ. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng kể, nhưng thế giới vẫn cần nỗ lực nhiều hơn nữa để đạt được các mục tiêu đề ra. Điều này đòi hỏi cam kết chính trị mạnh mẽ, đầu tư tài chính đầy đủ và giải quyết các rào cản xã hội liên quan đến HIV/AIDS.
Tại Việt Nam, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động dự phòng, mở rộng xét nghiệm và điều trị, giảm kỳ thị và phân biệt đối xử, huy động nguồn lực trong nước và thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng. Chỉ khi chúng ta chung tay góp sức, mục tiêu chấm dứt đại dịch AIDS mới trở thành hiện thực.
Ông Võ Hải Sơn, Phó Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) cho biết, để tiếp tục triển khai, duy trì thành quả chống dịch, hướng tới chấm dứt dịch bệnh HIV/AIDS trong thời gian tới, Chiến lược quốc gia chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030 đã có 11 nhóm giải pháp được đưa ra, trong đó Cục Phòng, chống HIV/AIDS tập trung vào các giải pháp như: Tăng cường thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS kết hợp với thực hiện các hoạt động phối hợp liên ngành phù hợp; tăng cường huy động cộng đồng tham gia cung cấp các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS; tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS nhằm bảo đảm tính phù hợp với thực tế và đồng bộ với hệ thống pháp luật khác có liên quan.
Theo ông Võ Hải Sơn, cần đổi mới tư duy và phương tiện truyền thông, nâng cao chất lượng công tác thông tin, giáo dục, truyền thông; giảm kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV; đổi mới và đa dạng hóa các biện pháp can thiệp giảm hại, dự phòng lây nhiễm HIV.
Trong đó, tập trung triển khai các can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV cho các nhóm có nguy cơ nhiễm HIV cao như: Người sử dụng ma túy, nam quan hệ tình dục đồng giới, người chuyển giới nữ, phụ nữ bán dâm và bạn tình, bạn tiêm chích của người nhiễm HIV; điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện, mô hình can thiệp cho người sử dụng ma túy tổng hợp, người sử dụng ma túy dạng kích thích Amphetamine (ATS) và người sử dụng đa ma túy, điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV bằng thuốc ARV (PrEP) cho các nhóm có hành vi nguy cơ cao qua hệ thống y tế nhà nước và tư nhân.
Ngoài ra, cần chú trọng việc đa dạng hóa các dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV, mở rộng xét nghiệm HIV tại cộng đồng, xét nghiệm HIV lưu động và tự xét nghiệm HIV; ứng dụng các kỹ thuật, sinh phẩm xét nghiệm mới, phương pháp lấy mẫu mới trong chẩn đoán nhiễm HIV, xác định những người có hành vi nguy cơ cao để triển khai các biện pháp can thiệp phù hợp phòng lây nhiễm HIV; mở rộng và bảo đảm chất lượng xét nghiệm HIV.
Vấn đề mở rộng độ bao phủ và nâng cao chất lượng dịch vụ điều trị HIV/AIDS cũng cần được chú trọng hơn nữa. Cần có sự huy động sự tham gia của y tế tư nhân trong điều trị HIV/AIDS; nâng cao hiệu quả giám sát phát hiện điều trị các bệnh đồng nhiễm gồm Lao, viêm gan B, C và các bệnh lây truyền qua đường tình dục…
Cùng với đó là việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai các nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động phòng, chống HIV/AIDS từ giám sát, quản lý, cung ứng các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS…
Theo Tiếng Chuông Chính Phủ